Đàn Hương Hình
Phan_8
Ta vội mở mắt. Không thấy gì hết! Chỉ nghe gió thu hiu hắt rì rào trên những ngọn cây và tiếng ri rỉ của mấy con dế sắp chết cóng. Còn nữa, cả một bầu trời đầy sao hấp háy nhìn ta. nhưng hễ nhắm mắt là ta lại thấy bà nội đứng trước mặt, bảo rằng vận may sắp đến với ta, còn mở mắt thì lại không thấy gì cả. Sáng sớm hôm sau, mặt trời đỏ rực, nhuốm hồng những giọt sương long lanh trên cỏ, trông thật đẹp mắt! Đàn quạ kêu ầm ĩ, bay về phía nam kinh thành. Về sau, tự nhiên ta hiểu, sáng sớm đàn quạ bay về hướng đó để làm gì? Ta đói không chịu nổi, muốn xin chút gì dằn bụng nhưng lại sợ tên Chột. Chợt trông thấy cái đống than bên đường có cái thân của cây cải bẹ, liền ra nhặt về chỗ chân tường, ngồi nhai rau ráu. Đang ăn ngon lành, ta thấy có đến mười mấy con ngựa xuất phát từ sân Bộ Hình, trên lưng là những lính dõng quần áo nẹp đỏ, phi nước kiệu trên con đường mới đắp vằng đất da ban màu vàng xỉn. Các lính dõng của mình cài yêu dao, tay cầm roi ngựa, gặp người vụt người, gặp chó đánh chó, cái phố lớn như vậy mà toắt cái trở nên vắng tanh.
Lát sau, một chiếc xe tù bằng gỗ, từ sân Bộ Hình chạy ra. Con la kéo xe tù rất gầy, sống lưng nhọn như sống dao, chân gầy như que củi. Xe tù chở một phạm tóc xõa, khuôn mặt mờ nhạt, mắt mũi không rõ. Xe lắc lư trên đường, trục khô dầu, rít kin kít. Dẫn đường cho xe tù là mấy lính kỵ mã khi nãy, sau đám kỵ mã là hơn chục lính thổi tù và. Tiềng tù và thì không thể hình dung nổi, tì… tì… như đàn trâu khóc. Phía sau xe tù, là một nhúm quan viên mặc triều phục, người to béo đi giữa để ria chữ bát, trông như ria dởm dán bằng keo. Phía sau các quan viên, lại là mười mấy kỵ mã. Đi kèm hai bên xe tù là hai người mặc quần áo màu đen, thắt lưng to bản, đầu đội mũ đỏ, tay cầm đại đao. Hai người sắc mặt đỏ gắt – khi ấy ta chưa biết họ bôi máu gà lên mặt – bước chân nhẹ nhàng không một tiếng động. Bố tụi bay nhìn họ không chớp, phong độ của họ làm ta mê mẩn! Khi ấy ta nghĩ, bao giờ mình có được cái dáng đi ấy nhỉ? Chợt ta nghe có tiếng bà nội nói sau lưng:
- Con ơi, cậu con đấy!
Ta lập tức quay lại, sau lưng là bức tường màu xám, không có ai cả. Nhưng ta biết bà nội đã hiển linh. Thế là ta gào lên: “Cậu ơi!” Cùng lúc ấy như có ai đẩy mạnh ta một cái, ta mất đà, lao về phía xe tù.
Đúng là không biết trời cao đất dày! Các quan viên và đám lính kỵ mã ngớ ra. Một con ngựa giật mình cất cao hai vó trước hí vang, tên lính kỵ văng xuống đất. Ta nhào đến trước mặt hai người áo đen tay cầm đại đao, vừa khóc vừa nói: “Cậu ơi, thế là cháu đã tìm thấy cậu!”… Nỗi niềm bấy lâu nay chất chứa trong lòng khiến ta trào nước mắt. Hai người áo đen cầm đại đao cũng ngẩn người ra. Ta thấy họ đưa mắt nhìn nhau, người nọ như có ý hỏi người kia: “Ông là cậu thằng ăn mày này à?”
Hai người áo đen chưa kịp có phản ứng gì, đám lính kỵ đã hoàn hồn vung đao vung kiếm hè nhau xông tới vây quanh ta, kiếm quang lấp lóa trên đầu ta. Một bàn tay vạm vỡ chộp lấy cổ ta nhấc bổng lên, ta có cảm giác như xương cổ mình gãy vụn, ta giẫy giũa trên tay họ, miệng gào to: “Cậu ơi, cậu!”… Rồi ta bị quẳng xuống đất, đè chết tươi một con nhái. Miệng ta vập phải đống phân ngựa còn nóng hổi.
Phía sau xe tù, một người to béo mặt đen, đội mũ triều thiên chóp bạc bằng pha lê màu lam, áo bào thêu con báo trắng trước ngực, ngồi ngay ngắn trên lưng con tuấn mã. Ta hiểu đây là ông quan to. Một lính dõng khuỵu một chân thưa lên:
- Bẩm đại nhân, một thằng ăn mày ạ!
Hai lính dõng điệu ta đến trước mặt đại quan, một tên ghìm tóc bắt ta ngẩng lên để đại quan xem mặt. Ông quan béo nhìn ta một thoáng, xì một cái, chửi:
- Thằng ăn mày ngu xuẩn! Xéo!
Tên lính dõng thưa lên một tiếng, rồi cầm tay ta lôi sang bên kia đường, dúi ta một cái, chửi: “Cút mẹ mày đi!”.
Người ta bay theo tiếng chửi, rơi tõm xuống rãnh bùn, nước thối hoắc.
Bố tụi bay loay hoay mãi mới mò được lên bờ, mắt không mở được, tối mò. Ta vơ nắm cỏ khô lau bùn đất trên mặt. Lúc mở được mắt ra, con đường đất ba dan bụi tung mù mịt, đội hành quyết đã đi về hướng nam. Ta nhìn theo mà cảm thấy trong lòng ngao ngán. Lúc này, lời bà nội lại văng vẳng bên tai: “Con nên đi xem! Người ấy là cậu con đấy!”.
Ta nhìn quanh, tìm bà nội. Chỉ thấy con đường đất màu vàng, bãi phân ngựa đang bốc hơi và những con chim sẻ nghiêng đầu, mắt bé tí đen láy, đang nổ thức ăn trong đống phân ngựa. Không thấy bà nội đâu cả! “Mẹ ơi!”… Ta buồn quá, cất tiếng khóc, tiếng khóc dài lê thê như cái rãnh nước bẩn chạy dọc theo bên đường. Ta nhớ bà nội, oán bà nội. Mẹ ơi, mẹ bảo con đến nhận mặt cậu, nhưng ai là cậu của con? Người ta xách cô con lên như xách mèo xách chó, rồi quẳng con xuống cái rãnh thối, suýt nữa cái mạng của con không còn! Lẽ nào mẹ không nhìn thấy? Mẹ ơi, mẹ có linh thiêng thì đưa đường chỉ lối, giúp con thoát khỏi bể khổ. Nếu mẹ không thiêng thì đừng nói gì nữa, dù phải cạp đất mà ăn, con trai cũng không cần mẹ lo toan! Nhưng bà nội tụi bay không nghe, cứ vo ve như con nhặng sau tai ta:
- Con đi mà xem, người ấy là cậu của con!
Vậy là bố tụi bay chạy như điên, đuổi theo đội hành quyết. Chỉ khi chạy thật nhanh, bà nội mới chịu ngậm miệng. Hễ chạy chậm là tiếng rủ rỉ bên tai lại vang lên. phải chạy thật nhanh mới thoát cái tiếng ấy, dù rằng, rất có thể lại bị quẳng xuống rãnh lần nữa. Ta đuổi theo đội hành quyết, ra khỏi cửa Tuyên Vũ, chạy miết trên con đường sống trâu đầy ổ gà, nước đọng thành vũng. Đây là lần đầu ta chạy trên con đường nổi tiếng trong thiên hạ, giờ đây nó in những vết chân của ta. Cảnh quan ngoại thành tiêu điều, không được như nội thành. Hai bên đường nhà cửa thấp lè tè, xen kẽ những vạt rau xanh: cải thìa, cải bẹ, củ cải; riêng đậu ván thì thân, lá đã khô héo trên giàn. Có mấy người đang lom khom trên những ruộng rau, họ không quan tâm nhiều đến đội hành quyết, người ngó qua một thoáng, người cắm cúi làm, không ngẩng đầu lên.
Gần đến pháp trường, con đường sống trâu chui tụt vào bãi rộng mênh mông, chính giữa là cái bệ cao, có rất nhiều người vô công rỗi nghề xúm quanh. Trong đám đông có một số là ăn mày, trong đó có tên Chột, thì ra đây cũng là địa bàn của hắn. bọn lính thúc ngựa dàn thành đội hình. Hai đao phủ rất phong độ nói trên mở xe, lôi phạm xuống. Phạm có lẽ gãy chân, đi cà nhắc khiến ta tưởng đến củ hành bị héo. Đao phủ dìu phạm lên bục, nhưng vừa buông tay, anh ra lại rũ xuống, chẳng khác người không xương! Những người đứng vây quanh xì xào, họ không bằng lòng thái độ hèn nhát của người tử tù. Đồ giẻ rách! Quân hèn! Đứng thẳng lên xem nào! Hát bài gì đi! Được mọi người cổ vũ, tên phạm khe khẽ cựa quậy, động đậy từng cơ bắp, từng cái xương cực kỳ khó khăn. Mọi người lên tiếng động viên anh ta. Anh ta chống tay ngồi lên rồi vươn người đứng dậy nhưng lập tức hai chân lại khuỵu xuống. Đám người xem kêu to: Anh kia, anh kia! Nói đôi lời gì đó đi! Chẳng hạn câu “Chém rơi đầu hôm nay, hai mươi năm sau lại là một hảo hán!”. Nhưng người tử tù, trái lại, nhếch miệng khóc òa, sau đó gào lên: “Trời ơi, oan cho tôi quá!”.
Những người đến xem ắng họng, đứng im như phỗng, nhìn lên bục. Hai đao phủ thần thái vẫn như cũ. Lúc này, âm hồn bà nội lại xì xào sau tai ta: “Gọi đi con, mau lên! Người ấy là cậu con!”. Bà nội hối thúc ta, càng lúc càng cao giọng, điệu bộ càng gay gắt, luồng khí lạnh phả thẳng vào gáy ta, nếu ta không gọi, chắc chắn sẽ bị bà bóp cổ. Không còn cách nào khác, ta chấp nhận để bọn lính dõng hung hãn chém bể đầu, gọi thật to: “Cậu ơi!”.
Chỉ trong một thoáng, các cặp mắt đều dồn về phía ta. Ánh mắt quan giám trảm, ánh mắt bọn lính dõng, ánh mắt bọn vô công rỗi nghề, tất tật ta quên hết, chỉ mỗi ánh mắt người tử tù là ta suốt đời không thể nào quên! Người tử tù ngẩng đầu lên, giương cặp mắt sưng húp vì bọng máu che khuất, nhìn ta, tia mắt như hai mũi tên màu đỏ, nhanh như chớp bắn rụng ta. Lúc này, viên quan giám sát thi hành án hô lớn: “Đến giờ rồi!”.
Cùng với tiếng hô là tiếng tù và bi tráng nổi lên, những lính dõng cũng chụm miệng huýt sáo lanh lảnh. Một đao phủ cầm đuôi sam của người tử tù kéo mạnh về đằng trước để cổ người tử tù vươn dài ra. Người đao phủ kia dùng cánh tay nâng đao, hơi vặn mình sang phải, rồi thoắt cái xoay người sang trái, “phập”, ánh đao sáng trắng cùng với tiếng rú nửa chừng, đao phủ phía trước đã giơ cao cái đầu của người tử tù. Đao phủ hạ thủ cùng đao phủ cộng sự, xếp hàng, hô lớn:
- Mời đại nhân nghiệm hình!
Viên quan to béo mặt đen vẫn ngồi trên mình ngựa, phẩy tay một cái như vẫy chào cái đầu, rồi giật cương quay ngựa rời pháp trường. Lúc này, những người đến xem hành hình cất tiếng reo hò, bọn ăn mày tranh nhau chạy đến chỗ cái bục, đợi lột quần áo người tử tù. Nửa cổ còn lại của người tù bỗng duỗi thẳng, máu vọt ra có vòi, còn thân hình thì ngã úp sấp, y hệt cái vò rượu bị đổ.
Cuối cùng thì ta cũng hiểu, quan giám trảm không phải cậu ta, đao phủ cũng không phải cậu ta, bọn lính dõng cũng không phải cậu ta. Người tù bị chém đầu mới là cậu ta.
Đêm ấy, bố tụi bay chọn một cây liễu mọc nghiêng, cởi dây làm thòng lọng buộc lên cây liễu rồi chui đầu vào. Cha chết rồi, mẹ chết rồi, người cậu có thể nhờ vả thì bị người ta chặt đầu rồi, bố tụi bay tứ cố vô thân, không nơi nương tựa, chết quách cho rảnh! Sắp sờ được mũi Diêm vương thì một bàn tay vạm vỡ đỡ lấy đít bố.
Chính là người đã chém đầu cậu của bố!
Ông dẫn ta đến một quán cơm, gọi bát canh đậu phụ nấu với đầu cá, bảo ta ăn. Ta ăn, ông không ăn, chỉ lặng lẽ ngồi nhìn ta. Người chạy bàn đưa đến một tách trà, ông cũng không uống. Ta ăn no, ợ hơi nhìn ông. Ông bảo:
- Ta là bạn thân của cậu con. Nếu con bằng lòng, hãy làm đồ đệ của ta!
Tư thế lúc ban ngày của ông tái hiện trước mắt ta: trước tiên, người đứng thẳng, sau đó nhanh chóng xoay sang phải, cánh tay phải như cầm nửa vầng trăng, “phập”, cái đầu của ông cậu giơ cao cùng với tiếng kêu oan nửa chừng tắt lịm… Bà nội lại thì thầm bên tai: “Con ơi, mau quì xuống lạy sư phụ đi!”.
Ta quì xuống lạy sư phụ, mắt ầng ậng nước. Thực ra, ông cậu sống hay chết ta không quan tâm, ta chỉ quan tâm bản thân ta. Nước mắt lưng tròng, ta không nghĩ rằng giấc mộng ban ngày lại biến thành hiện thực nhanh đến thế. Ta cũng muốn trở thành một đao phủ giết người không chớp mắt. Mặt họ lạnh như tiền mà cứ tỏa sáng trong giấc mơ của ta.
Con ơi, sư phụ chính là Già Dư, người mà ta kể cho con nghe đã hàng trăm lần. Sau đó, Già bảo ta, Già cùng ngục tốt – cậu ta, kết nghĩa anh em. Cậu ta phạm tội, chết dưới tay sư phụ, đúng là con tạo xoay vần! “Phập” một nhát, nhanh hơn gió. Già Dư nói, khi rơi xuống, cái đầu cậu bảo ông:
- Anh ơi, cháu em đấy, chăm nom nó hộ em!
Chương 11
Ánh trăng như rắc bụi vàng bụi bạc trên giấy dán cửa sổ. Giáp Con ngủ say trên giường, chân tay dang rộng, ngáy như sấm. Nàng trần truồng đi ra sân, cảm thấy ánh trăng như nước chảy trên người. Cảm giác ấy thật là đẹp, nhưng lại chạm vết thương lòng, vết thương mà bất cứ lúc nào cũng tái phát. Tiền Đinh ơi Tiền Đinh, ông lớn Tiền, oan gia của tui! Khi nào ông mới biết, rằng có người đàn bà mất ngủ vì ông? Khi nào ông mới hay, rằng một quả đào mật đã chín nẫu, đang đợi ông thưởng thức… Ôi vầng trăng trên cao, Người là thần của giới nữ, là tri kiû của giới nữ. Nguyệt lão trong truyền thuyết có phải là Người không? Nếu Người là Nguyệt lão trong truyền thuyết thì sao không nhắn giúp tui một cái tin? Nếu Người không phải là Nguyệt lão trong truyền thuyết, thì Nguyệt lão chủ trì tình yêu nam nữ dưới trần là ngôi sao nào, hay vị thần nào dưới hạ giới? Một con chim trắng rất to theo ánh trăng bay tới, đậu trên cây ngô đồng ở góc sân. Tim nàng đập rộn lên. Nguyệt lão ơi Nguyệt lão, Người thiêng thật! Người không mắt nhưng thấu suốt vạn vật dưới trần gian. Người không tai, nhưng nghe thấy hết những lời riêng tư thầm thì. Người đã nghe thấy lời cầu xin của tui, sai tín sứ là con chim này đến gặp tui. Chim này là chim gì vậy? Một con chim lớn màu trắng, trắng đến nỗi sáng lóa dưới ánh trăng. Mắt chim như hạt vàng khảm trên nền bạch kim. Chim đậu trên cành cao nhất của cây ngô đồng, tư thế vô cùng đẹp mắt cúi nhìn tui. Chim ơi, chim thần ơi, hãy dùng cái mỏ trắng như bạch ngọc của chim chuyển cho người mà tui yêu thương mối tương tư còn nóng bỏng hơn lửa, triền miên hơn mưa thu, dày đặc hơn cỏ dại của tui, rằng chỉ cần ông hiểu được lòng tui, là tui dám nhảy vào rừng dao biển lửa, rằng tui nguyện hóa thành cái ngưỡng cửa nhà ông, để hàng ngày ông ra đụng vào đụng; rằng tui nguyện biến thành con ngựa, tùy ông cưỡi, tùy ông đánh bằng roi; rằng tui đã từng ăn phân của ông… Ông lớn thân yêu của tui, người anh của tui, trái tim của tui, sinh mạng của tui! Mối tương tư, cái tình của tui như một cây nở đầy hoa, hương thơm ngào ngạt, bông nào cũng thấm đẫm máu và nước mắt tui, mỗi bông là một tình thoại, cả cây là ngàn vạn lời tỏ tình. Ông thân yêu của tui! Tôn Mi Nương ngước nhìn cây ngô đồng, nước mắt chan hòa, môi nàng run run, những câu nói dứt quãng thoát ra giữa hai hàm răng trắng lóa. Đất trời cảm động vì lòng thành của nàng. Con chim kêu lên một tiếng rồi vỗ cánh bay đi, thoắt cái đã mất dạng trong ánh trăng, y như nước đá tan trong nước, như tia lửa bắn vào quầng lửa!
Đang ngẩn ngơ, tiếng gõ cửa khiến nàng giật mình đánh thót. Nàng vội vàng chạy về buồng mặc quần áo. Không kịp xỏ giày, nàng cứ chân trần chạy trên đất ẩm sương đêm, đến bên cổng. Nàng ôm ngực, run rẩy:
- Ai?
Nàng rất mong có chuyện lạ xảy ra, rất mong lòng thành của nàng cảm động được trời đất, thần linh đã đưa sợi xích thằng cho người nàng yêu. Chắc là, nhân có trăng, ông lớn đến thăm nàng. Nàng quì xuống, cầu mong giấc mơ biến thành sự thật. Nhưng bên ngoài có tiếng thì thầm:
- Mi Nương, mở cửa!
- Ai đấy?
- Con gái, cha của con đây mà?
- Cha, nửa đêm gà gáy cha đến đây làm gì?
- Đừng hỏi nữa, cha gặp nạn, mở cửa mau!
Nàng hốt hoảng rút then, mở cánh cổng lớn. cùng với tiếng rít của cánh cổng, cha nàng – kép hát trứ danh vùng Cao Mật, ngã nhào vào sân.
Dưới ánh trăng, nàng thấy mặt cha đầy máu. Bộ râu thua một cách vẻ vang trong lần đọ râu, nay chỉ còn lơ thơ vài sợi trên cái cằm đầy máu. Nàng kinh ngạc hỏi:
- Cha, sao thế này hở cha?
Nàng gọi Giáp Con dậy, vực cha vào giường, dùng đũa cậy miệng, đổ nửa bát nước lạnh cha nàng mới tỉnh. Vừa tỉnh, ông đã sờ lên cằm, và ông ồ khóc. Ông khóc rất thương tâm, y hệt như đứa trẻ bị đòn oan. Máu ở cằm rỉ ra, bôi bẩn mấy sợi râu còn lại. nàng lấy kéo cắt rụi, rồi vốc một nắm bột mì đắp lên cằm cho cha. Nàng hỏi:
- Kẻ nào hại cha đến nông nỗi này?
Mắt cha tóe lửa, những thớ thịt trên mặt giật giật, nghiến răng ken két:
- Chính hắn, chắc chắn là hắn! Chính hắn vặt râu ta. Hắn thắng ta, mà sao không tha cho ta? Trước công chúng, hắn tuyên bố miễn tội cho ta, vậy vì sao lại ngầm hạ độc thủ. Thằng này độc hơn rắn rết!
Lúc này nàng cảm thấy đã hoàn toàn khỏi bệnh tương tư. Nhớ lại mấy tháng trời mê mê mẩn mẩn, nàng vừa thẹn vừa hối hận, có vẻ như đồng lõa với Tiền Đinh vặt râu cha. Nàng nghĩ thầm: quan lớn Tiền, ông độc ác quá, ông nhỏ nhen quá! Còn đâu là một quan phụ mẫu nổi tiếng khoan dung nhân hậu? Hai năm rõ mười là một tên phỉ tàn ác! Ông đã hại tui đến nỗi ma chẳng ra ma, người chẳng ra người, cũng tại tui tự ti thái quá, ông lại còn hạ độc thủ với người đã chịu hàng phục ông. Ông là tên súc sinh mặt người dạ thú, vậy mà làm sao tui lại si mê ông? Ông có biết mấy tháng nay tui sống như thế nào không? Nghĩ tới đây tui lại thấy buồn não ruột! Tiền Đinh, ông vặt râu cha tui, tui sẽ lấy cái mạng chó của ông!
Nàng cẩn thận lựa ra hai đùi chó thật béo, rửa sạch cho vào nồi luộc. Để cho thịt thơm đậm nàng cho hương liệu vào luộc cùng. Nàng đích thân canh lửa, lúc đầu lửa to, nước sôi sùng sục, sau giữ lửa nhỏ, ninh dừ. Mùi thịt chó bay khắp phố. Thất Tai To là khách quen chạy tới, đập cửa rầm rầm:
- Nàng Tiên Chân To, gió nào thổi mà trời quang mây tạnh thế? Chị lại thịt chó rồi hả? Tôi đặt một đùi…
- Một đùi cái mả mẹ anh! – Nàng gõ muôi vào mép nồi, chửi toáng lên. Chỉ một đêm, nàng đã trở lại bản sắc của nàng Tây Thi Thịt Cầy cười đấy, chửi đấy. Vẻ nhu mì thời tương tư Tiền Đinh biến mất từ lúc nào. Nàng húp một bát cháo lòng, ăn một đĩa thịt vụn, rồi dùng muối tinh chà răng, nước lọc súc miệng, chải đầu rửa mặt, đánh phấn thoa son, thay quần áo cũ, mặc quần áo mới, ngồi trước gương vuốt tóc, cài bông hồng lên tóc mai. Nàng thấy mình bắt mắt quá, nàng si mê chính mình, thế là lửa tình lại bùng lên, khó mà dập tắt. Thế này đâu phải đi giết người, đi bán duyên thì có! Lửa dục bùng lên khiến nàng sợ run, nàng úp sấp gương, rồi nghiến răng nghiến lợi, mong lửa hận bùng cháy trong lồng ngực. Để củng cố quyết tâm, để mài rũa ý chí, nàng sang chái đông thăm cha. Bột mì đã đóng vẩy trên vết thương, cằm cha có mùi hôi, dụ ruồi nhặng kéo đến từng đàn. Khuôn mặt cha khiến nàng vừa hận vừa xót xa. Nàng cầm que củi chọc nhẹ vào cằm cha. Cha nàng đang ngủ bị đau, kêu lên một tiếng rồi tỉnh dậy, hé cặp mắt sưng mọng nhìn nàng.
- Cha, con hỏi cha – Nàng lạnh nhạt, hỏi – Nửa đêm cha vào thành có việc gì?
- Cha đi chơi động – Cha nàng trả lời thẳng thắn.
- Xì – Nàng diễu cha – Râu của cha bị bọn điếm nhổ làm phất trần, đúng không?
- Không phải, cha với bọn họ quan hệ rất tốt, họ không nỡ vặt râu ta! cha từ động ra về, đến ngõ sau huyện lỵ thì một người bịt mặt nhảy ra, đánh cha ngã xuống rồi vặt râu cha.
- Hắn có một mình mà vặt được râu của cha?
- Hắn võ nghệ cao cường, còn ta lúc đó đang say khướt.
- Vì sao cha khẳng định là hắn?
- Hắn đeo bao râu dưới cằm – Cha khẳng định – Chỉ người nào râu dài mới dùng bao râu.
- Vậy được, con sẽ báo thù cho cha – Nàng nói – Dù cha là đồ khốn kiếp, nhưng vẫn là cha của con!
- Con định báo thù kiểu gì?
- Con sẽ giết hắn!
- Không, con không thể giết hắn, cũng không giết nổi hắn – Cha nói – con vặt một nắm râu của hắn thì coi như đã báo thù cho cha!
- Được, con sẽ vặt râu hắn.
- Con cũng không vặt được râu hắn – Cha lắc đầu nói – Hắn khỏe lắm, vọt một phát cao ba thước, nhìn qua cũng biết là dân có nghề.
- Cha không biết câu “vỏ quýt dày có móng tay nhọn” sao?
- Cha đợi tin vui của con – Cha nói, giọng hài hước – Chỉ e cầm túi thịt đánh chó, có đi mà không có về!
- Cha hãy đợi đấy!
- Con gái ơi, cha tuy chẳng ra gì nhưng vẫn là cha của con, cha khuyên con đừng đi! Nằm ngủ một nửa đêm, ít nhiều cha đã hiểu, cha bị người ta vặt râu là đích đáng, không nên trách người ta – Cha nói – Cha sẽ về nhà ngay bây giờ, ai khuyên cha cũng không đi hát nữa. Một đời hát hổng, một đời hư! Vở diễn có câu “Thay da đổi thịt, trở lại làm người”, với cha hiện nay thì “Nhổ sạch râu ria, trở lại làm người”.
- Con không chỉ vì cha mà giết hắn…
Nàng vào bếp, dùng chao vớt đùi chó ra, để ráo nước, rắc lên một lượt tiêu ớt, gói kỹ bằng lá sen khô, cất vào làn. Nàng lục đống đồ nghề của Giáp Con, lấy ra con dao nhọn vẫn dùng để róc xương, gại ngón tay để thử độ sắc. Nàng giấu con dao dưới đáy làn. Giáp Con buồn bực hỏi:
- Vợ ơi, vợ lấy dao làm gì đấy?
- Giết người!
- Giết ai?
- Giết chồng!
Giáp Con sờ gáy, cười lặng lẽ:
- Không phải, vợ giết vợ.
Mi Nương đến trước cổng nha môn, lén giúi bạc vào tay Tiểu Đồn một chiếc vòng đeo tay bằng bạc, rồi véo một cái vào đùi hắn, nói:
- Người anh em, cho tui vào đi!
- Vào làm gì? – Tiểu Đôn cười tít mắt, hếch cằm về phía cái trống đại, nói – Kiện tụng gì thì cứ đánh trống lên!
- Tui không có oan ức mà phải đánh trống kêu oan! – Nàng nghiêng má, ghé sát tai Tiểu Đồn, nói – Ông lớn nhắn tui đem thịt chó lên.
Tiểu Đồn cố ý khịt khịt mũi:
- Thơm, thơm, thơm điếc mũi! Không ngờ ông lớn lại khoái cái của này!
- Bọn đàn ông thối tha các người, thế cái của nào thì không khoái?
- Chị Hai, hầu hạ ông lớn xong xuôi, xương xẩu còn thừa cho đàn em nhấm nháp mấy!
Nàng xì một cái vào mặt Tiểu Đồn, nói:
- Chị đây không khi nào để chú em thiệt! Này, giờ này ông lớn ở phòng nào?
- Giờ này… - Tiểu Đồn nhìn mặt trời, nói - Giờ này ông lớn làm việc ở phòng duyệt án, cái phòng kia kìa!
Nàng bước vào cổng, men theo lối đi thẳng tắp, qua khoảng sân đã từng có cuộc đọ râu, rẽ vào sân của sáu phòng ban, rồi vòng qua hành lang phía đông của đại sảnh. Những người gặp nàng đều giương mắt nhìn, vẻ tò mò. Với tất cả bọn họ, nàng đều đáp lại bằng nụ cười quyến rũ, thế là họ tinh thần phơi phới, thần hồn điên đảo. Bọn nha dịch nhìn không chớp eo lưng uyển chuyển của nàng, miệng há hốc, nước miếng chảy ra. Họ đưa mắt nhìn nhau, gật gật đầu ra vẻ đã hiểu. Đem thịt chó đến à, đúng, đem thịt chó đến. Ông lớn vốn thích khoản này. Đúng là một con chó cái thơm da thơm thịt, béo chảy mỡ… Bọn nha dịch nghĩ đến chuyện khác, cười rúc rích.
Bước vào sảnh Hai, nàng thấy tim đập thình thịch, miệng khô, hai đầu gối bủn rủn. Chàng thơ lại trẻ tuổi dẫn đường dừng lại, hất hàm về phía cửa phía đông của sảnh Hai. Nàng quay lại định cảm ơn, nhưng anh ta đã rút lui đến giữa sân. Nàng đứng trước phòng duyệt án, hít thật sâu để dịu bớt sóng gió trong lòng. Từ sân sau sảnh Hai, mùi tử đinh hương thơm gắt ùa đến từng đợt, khiến đầu óc nàng quay cuồng. Nàng giơ tay vén tóc mai, sửa lại bông hồng nhung, rồi xuôi tay lần theo đường chéo của vạt áo xuống tận gấu. Nàng kéo nhẹ cửa, tấm rèm màuu thanh thiên thêu hai con cò trắng màu nhũ bạc, chắn tầm nhìn của nàng. Nàng cảm thấy máu dồn về tim, nhớ lại hình ảnh hai con cò tình tứ bên nhau ở khu đầm lầy. Nàng cắn chặt môi để khỏi bật tiếng khóc. Nàng không thể nói rõ cơn bão lòng là yêu hay là hận, là oán hay hờn, chỉ biết như muốn nổ tung lồng ngực. Nàng lùi lại mấy bước một cách khó nhọc, gục đầu vào mặt tường mát lạnh.
Sau đó, nàng nghiến răng cố giữ bình tĩnh, trở lại đứng trước rèm. Nàng nghe thấy tiếng giở sách loạt soạt, tiếng va chạm vào dĩa, tiếp đó là tiếng ho khẽ. Cổ họng tắc nghẹn, nàng hít thở khó khăn. Đó là tiếng ho của ông lớn, người tình trong mộng của nàng, đồng thời cũng là kẻ thù bề ngoài tỏ ra nhân từ, trong lòng ác độc, kẻ thù đã vặt râu cha nàng. Nàng nhớ lại sự nhục nhã ê chề của tình yêu đơn phương, nhớ lại lời răn dạy của bà Lã và phương thuốc chất thải mà bà Lã cho nàng uống. Quân cường đạo, bây giờ tui mới hiểu vì sao hôm nay tui đến đây, chẳng qua là mượn cớ báo thù cho cha để tự đánh lừa mình. Kỳ thực, bệnh của tui đã vào xương tủy, kiếp này vô phương cứu chữa. Tui cần có một lối thoát. Tui cũng biết con một anh hát, vợ một tên đồ tể không lọt vào mắt xanh của quan huyện, cho dù tui có nhào vào lòng ông, thì ông cũng đuổi tui ra. Tui chẳng hy vọng gì và cũng không mong được cứu rỗi. Tui sẽ chết trước mặt ông hoặc để ông chết trước mặt tui, sau đó tui đi theo ông.
Để có đủ dũng khí bước qua cái rèm, nàng cố khơi dạy lòng căm thù trong nàng. Nhưng lòng căm thù của nàng chỉ như gió xuân khẽ đung đưa cành liễu, không có cơ sở, không trọng lượng, chỉ cần một gợn giò là bay mất dạng. Mùi hoa đinh hương khiến nàng choáng váng, bồn chồn không yên. Lúc này, bỗng có tiếng huýt sáo khe khẽ, ríu rít như chim vành khuyên, rất vui tai. Không ngờ đường đường qua tri huyện mà huýt sáo miệng như một thiếu niên lãng tử! Nàng cảm thấy một làn gió nhẹ mơn trớn, khắp người nổi da gà, trong đầu lại mở ra một kẽ hở. Trời ơi, nếu không ra tay thì không còn dũng khí nữa. Nàng phải thay đổi kế hoạch, lấy dao từ đáy làn cầm gọn trong tay. Nàng định vào làm ngay, đâm trúng tim ông lớn rồi đâm vào tim mình. Để máu của ông và máu của nàng cùng chảy. Nàng bạo lên, hất rèm bước vào, tấm rèm thêu hai con cò khép ngay lại sau lưng nàng, che khuất luôn thế giới bên ngoài.
Giữa phòng là chiếc bàn lớn, trên bày đủ văn phòng tứ bảo, những bức tranh chữ treo trên tường, những giá gỗ để xó nhà, trên giá là những bồn hoa, cửa sổ chan hòa ánh nắng. Tất cả những cái đó sau khi cơn kích động qua đi, nàng mới nhìn thấy. Còn khi vén rèm bước vào, chỉ thấy mỗi ông lớn. Ông mặc thường phục, áo rất rộng, người hơi ngả trong ghế thái sư, hai chân đi tất bông trắng tinh thì gác lên mặt bàn. Ông lớn giật mình, vội thả hai chân xuống, vẻ ngạc nhiên còn đọng mãi trên khuôn mặt. Ông ngồi thẳng lên, đặt sách xuống nhìn nàng không chớp, nói:
- Nàng…
Lưu địa chỉ wap để tiện truy cập lần sau. Từ khóa tìm kiếm: chatthugian